Theo số liệu thống kê, đến nay, trên địa bàn tỉnh Cà Mau sau hợp nhập có 609 Hợp tác xã (trong đó có 480 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thu hút hơn 16.700 thành viên) và 05 Liên hiệp hợp tác xã với 41 thành viên tham gia. Sự gia tăng này cho thấy nhận thức của người dân về tổ chức sản xuất theo mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã ngày càng được nâng lên.

Các Hợp tác xã đã thể hiện vai trò quan trọng là cầu nối trong việc tiếp thu, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã tích cực tham gia thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Đặc biệt, nhiều Hợp tác xã có sản phẩm được công nhận là sản phẩm OCOP, khẳng định được thương hiệu và nâng cao giá trị nông sản.

Phát triển kinh tế tập thể là xu thế tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho thành viên sản xuất kinh doanh hiệu quả, phát triển bền vững. Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng đó, trong những năm qua Sở Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp với các Sở, ngành liên quan và địa phương triển khai nhiều chính sách hỗ trợ HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp gắn chuỗi giá trị và Chương trình OCOP, đạt được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể như:

(1) Hỗ trợ về nguồn lực và công nghệ:

Hàng năm, đều mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho HTX; hỗ trợ lao động trẻ về làm biệc tại HTX (đã hỗ trợ 18 lao động trẻ); hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng đối với 28 HTX (bao gồm các hạng mục: 06 trụ sở làm việc, 28 nhà kho, 26 cửa hàng vât tư nông nghiệp, 02 cửa hàng trưng bày sản phẩm, 05 sân phơi); hỗ trợ, hướng dẫn HTX tiếp cận chính sách ưu đãi về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, đổi mới công nghệ sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm; hỗ trợ thực hiện mô hình phát triển sản xuất chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh; hỗ trợ các HTX tham gia xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường;… qua đó đã giúp cho hợp tác phát triển sản xuất kinh doanh và mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm.

 Ngoài ra, Sở Nông nghiệp và Môi trường còn phối hợp với Công ty Sorimachi Việt Nam tổ chức triển khai nhiều đợt tập huấn sử dụng 03 phần mềm (phần mềm Nhật ký điện tử (FaceFarm), phần mền kế toán HTX (WACA) và Phần mềm quản lý bán hàng (Hanbai)); tổ chức các lớp tập huấn nâng cao kỹ năng thương mại điện tử; xây dựng và phát triển kênh bán hàng cho doanh nghiệp, kỹ năng tiếp thị sản phẩm...

(Tập huấn phần mềm cho các HTX trên địa bàn tỉnh)

(2) Hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:

Thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 17/2019/NQ-HĐND ngày 6/12/2019 về chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau và Nghị quyết 14/2022/NQ-HĐND Cà Mau quy định nội dung hỗ trợ, mẫu hồ sơ thực hiện phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, phát triển sản xuất cộng đồng, phát triển sản xuất theo nhiệm vụ thuộc các CTMTQG trên địa bàn tỉnh Cà Mau.

Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 512/QĐ-UBND ngày 16/3/2021 về phê duyệt các ngành hàng, sản phẩm quan trọng khuyến khích, ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và phân cấp phê duyệt hỗ trợ liên kết trên địa bàn tỉnh Cà Mau; Kế hoạch số 04/KH-UBND ngày 04/1/2023 về Phát triển hợp tác liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2022-2025.

Kết quả đến nay, toàn tỉnh có trên 27 chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp, HTX và hộ dân trong tỉnh với các đối tác, với diện tích 37.816 ha; có 09 công ty tham gia liên kết với 11 HTX/THT với diện tích 48.244,7 ha (trong đó lúa hữu cơ 311,7 ha, lúa an toàn và VietGAP 47.930 ha), sản lượng tiêu thụ khoảng 337.095 tấn; có 16 trại chăn nuôi heo tập trung gắn với liên kết, tổng đàn heo chăn nuôi tập trung gắn với liên kết và tiêu thụ sản phẩm là 98.200 con (chiếm 14,55% tổng đàn heo xuất chuồng của tỉnh); có 02 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gỗ, với diện tích 130 ha, sản lượng gỗ khai thác đạt 26.000m3 (chiếm 3,02% diện tích và 4,0% sản lượng gỗ khai thác của toàn tỉnh).

Việc sản xuất dưới các hình thức liên kết đã giúp cho các vùng nguyên liệu sản xuất ổn định hơn, chất lượng sản phẩm đồng đều, người dân dễ dàng tiêu thụ sản phẩm, giảm chi phí và tăng lợi nhuận.

Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh có 04 Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ (Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ tôm sú của HTX Chế biến TMDV NTTS Cái Bát – xã Hưng Mỹ; Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ tôm sú của HTX Nuôi tôm năng suất cao Tân Hưng – xã Tân Hưng; Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo của HTX Dịch vụ nông nghiệp Kinh Dớn – xã Đá Bạc; Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ bồn bồn kết hợp cá đồng của HTX An Hòa – xã Khánh An), với tổng kinh phí thực hiện là 3,3 tỷ đồng. Hiện nay, các HTX đang triển khai thực hiện các nội dung của dự án đảm bảo tiến độ được phê duyệt.

Đổi mới phương thức sản xuất giúp nông dân, HTX ở Cà Mau tăng năng suất

(3) Hỗ trợ các hợp tác xã tham gia Chương trình OCOP:

Trong thời gia qua, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã và đang phối hợp với các đơn vị có liên quan tập trung hỗ trợ cho các HTX tham gia Chương trình OCOP, cụ thể như: hướng dẫn các thủ tục pháp lý (hợp đồng mua bán, kế hoạch kinh doanh,…); thiết kế mẫu mã bao bì, nhãn mác, phân tích mẫu sản phẩm, công bố chất lượng; hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, sở hữu trí tuệ, xây dựng và áp dụng các hệ thống chứng nhận quản lý chất lượng tiên tiến (ISO, HACCP, hữu cơ, VietGAP); hỗ trợ đưa sản phẩm OCOP lên các sàn giao dịch thương mại điện tử; … Nhờ các chính sách này, đến nay trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 50 HTX nông nghiệp với 121 sản phẩm đạt chuẩn OCOP (trong đó 25 sản phẩm đạt 4 sao), chiếm khoảng 37% tổng số chủ thể OCOP.

(Sản phẩm OCOP của HTX Trúc Thương)

(Một số sản phẩm OCOP của địa phương)

(Hợp tác xã Đoàn Phát với sản phẩm gạo đạt chuẩn OCOP 3 sao)

Bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trên, HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn những khó khăn cần được tháo gỡ cho thời gian tới như: Phần lớn các HTX nông nghiệp có vốn điều lệ và doanh thu nhỏ, dẫn đến khó khăn trong việc đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Nhiều hợp tác xã có quy mô sản xuất nhỏ, trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế dẫn đến khó áp dụng các giải pháp công nghệ lớn, phức tạp vào việc liên kết sản xuất và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ quản lý và thành viên hợp tác xã phần lớn thiếu kiến thức, kỹ năng và tư duy về chuyển đổi số nên việc ứng dụng công nghệ mới gặp rào cản về thói quen, e ngại thay đổi. Một số hợp tác xã chưa chú trọng xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm. Ngoài ra, nhiều hợp tác xã nông nghiệp hiện nay tuy đã có sản phẩm OCOP, nhưng vẫn còn lúng túng trong việc xây dựng thương hiệu, tiếp cận và vận hành trên các sàn thương mại điện tử lớn.

Để phát triển HTX nông nghiệp bền vững trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp đề xuất một số giải pháp trọng tâm như sau:

Một là, Tiếp tục đẩy mạnh công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng về nhận thức và hành động của người dân và các cấp, các ngành về vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới và Chương trình OCOP.

Hai là, Tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn cụ thể cho cán bộ quản lý hợp tác xã và thành viên về lợi ích, cách thức ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, kinh doanh. Ưu tiên nguồn lực hỗ trợ các hợp tác xã, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp, áp dụng các phần mềm quản lý, hệ thống truy xuất nguồn gốc, và tham gia các sàn thương mại điện tử.

Ba là, Tư vấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, giúp các hợp tác xã tiếp cận với quy trình sản xuất tiên tiến, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tập trung số hóa toàn bộ quá trình từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ để các hợp tác xã tham gia liên kết chuỗi giá trị một cách minh bạch, hiệu quả.

Bốn là, Hỗ trợ, xây dựng các mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã ứng dụng chuyển đổi số vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận doanh nghiệp và thị trường; cần hỗ trợ xây dựng website cho các hợp tác xã có quy mô lớn, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại, dịch vụ… nhằm quảng bá thông tin, kết nối cung cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh của hợp tác xã, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.

Năm là, Rà soát, xử lý dứt điểm các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, các hợp tác xã ngừng hoạt động với thời gian dài, hợp tác xã không có mã số thuế,… theo hướng củng cố kiện toàn, sáp nhập hoặc giải thể nhằm nâng cao chất lượng khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, tạo niềm tin cho nông dân trong tham gia hợp tác xã góp phần thức đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao đời sống người dân.

Sáu là, củng cố, tăng cường hoạt động của hệ thống liên minh hợp tác xã và các tổ chức đại diện, trong đó Liên minh Hợp tác xã tỉnh là nòng cốt nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Liên minh Hợp tác xã tỉnh phát huy và làm tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với thành phần kinh tế tập thể; hướng dẫn, chia sẻ thông tin, vận động và tham gia thực hiện các chính sách đối với kinh tế tập thể; cùng với các tổ chức kinh tế tập thể thực hiện tốt chức, năng nghiệm vụ và đúng quy định của pháp luật.

Theo: NT